Nhân khẩu Hồ_Nam

Hồ Nam là một trong các tỉnh đông dân của Trung Quốc, cuối năm 2007, Hồ Nam có tổng cộng 68.057.000 người, đứng thứ 7 cả nước. Hồ Nam có mật độ dân cư cao, với khoảng 319 người/km², cao hơn bình quân chung của Trung Quốc. Trong cùng kì, dân số thành thị là 27,5 triệu người, còn dân số nông thôn là 40,5 triệu người, tỉ lệ người cao tuổi chiếm 8,98%. Năm 2007, tỷ lệ sinh của tỉnh là 11,96‰, tỷ lệ tử vong là 6,71‰, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên là 5,25‰. Hồ Nam và Giang Tây là hai tỉnh mất cân bằng giới tính lớn nhất tại Trung Quốc, theo nghiên cứu của BMJ dựa theo số liệu năm 2005, tỷ lệ bé trai/bé gái trong nhóm tuổi từ 1-4 tại Hồ Nam là trên 140/100.[4]

Hồ Nam là một tỉnh đa dạng về dân tộc, tổng dân số của các dân tộc thiểu số vào năm 2007 là 6,58 triệu người (đứng thứ 6 cả nước sau Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Tân CươngLiêu Ninh), ước tính chiếm 10,21% tổng dân số toàn tỉnh. Trong đó, các dân tộc thiểu số có số lượng đáng kể là người Thổ Gia (2,64 triệu), người Miêu (1,92 triệu), người Động (840.000), người Dao (700.000), người Bạch (130.000), người Hồi (97.000), người Choang (24.000), người Mông Cổ (16.000), người Mãn (8.206). Các dân tộc thiểu số phân bố tại toàn bộ 14 châu thị của Hồ Nam, song tập trung nhiều ở khu vực phía tây và phía nam với các khu định cư nhỏ và phân tán. Toàn tỉnh Hồ Nam có một châu tự trị dân tộc (Tương Tây, của người Thổ Gia và người Miêu), cùng 7 huyện tự trị (của người Miêu, người Động, người Dao) cùng 100 hương dân tộc. Ngoài ra, Tang Thực và khu Vĩnh Định của Trương Gia Giới cũng được hưởng các chính sách ưu đãi tự trị địa phương. Diện tích đất các khu vực dân tộc thiểu số chiếm khoảng 28% tổng diện tích Hồ Nam.

Có khoảng 5.000 người Duy Ngô Nhĩ sinh sống ở khu vực Đào Nguyên và các nơi khác của Thường Đức.[5][6][7] Người Hồi và người Duy Ngô Nhĩ trong khu vực này thường hợp hôn với nhau.[7] Những người Duy Ngô Nhĩ sinh sống tại Thường Đức có đặc tính tôn giáo không cao, họ còn làm trái với tục lệ của Hồi giáo khi ăn thịt lợn.[7] Những người Duy Ngô Nhĩ lớn tuổi không chấp nhận thực tế này, và họ vẫn tìm cách đưa cộng đồng quay trở lại với các phong tục của Hồi giáo. Ngoài việc ăn thịt lợn, người Duy Ngô Nhĩ ở Hồ Nam còn thực hiện các phong tục của người Hán, như thờ cúng tổ tiên. Một số người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương đến thăm những người Duy Ngô Nhĩ ở Hồ Nam vì hiếu kì. Ngoài ra, người Duy Ngô Nhĩ ở Hồ Nam không nói tiếng Duy Ngô Nhĩ, thay vào đó, ngôn ngữ mẹ đẻ của họ là tiếng Hán.[7]

Tôn giáo

Ngự Bi đình tại Nam Nhạc đại miếu, chân Hành Sơn

Tôn giáo tại Hồ Nam[8]

  Kitô giáo (0.77%)
  Tôn giáo khác hoặc không tôn giáo (79.04%)
  • Phật giáo: Phật giáo đã có lịch sử lâu dài tại Hồ Nam, hiện nay là tôn giáo lớn nhất trong tỉnh, có ảnh hưởng lớn nhất đến sinh hoạt xã hội của cư dân. Hiện nay, trên địa bàn Hồ Nam đã khôi phục gần 2.000 miếu chùa, số tăng ni trường trú là gần 4.000 người, tổng số cư sĩ và tín đồ ước khoảng 3,69 triệu người. Các ngôi chùa Phật giáo trọng điểm toàn quốc tại Hồ Nam là: Nam Nhạc đại miếu (南岳大庙, nơi thờ tự của cả tam đạo: Phật, Lão và Khổng), Chúc Thánh tự (祝圣寺), Phúc Nghiêm tự (福严寺), Nam Đài tự (南台寺), Thượng Phong tự (上封寺), Lộc Sơn tự (麓山寺) ở Trường Sa, Khai Phúc tự (开福寺), Thánh An tự (圣安寺) ở Nhạc Dương.
  • Đạo giáo: đến cuối năm 2009, tỉnh Hồ Nam có khoảng 1,1 triệu tín đồ Đạo giáo với 913 điểm sinh hoạt Đạo giáo đăng ký chính thức, có hàng chục nghìn đạo sĩ. Đạo giáo đã xuất hiện sớm nhất ở Hồ Nam từ thời Đông Hán. Các đền Đạo giáo phổ biến nhất là Nam Nhạc đại miếu ở Hành Sơn, Vân Lộc cung (云麓宫) ở Nhạc Lộc Sơn, Đào Công miếu (陶公庙) ở Trường Sa.
  • Tin Lành: Vào thế kỷ XIX, Hồ Nam là một trong các tỉnh phản đối ảnh hưởng của người Tây phương mạnh mẽ nhất. Sau năm 1901, đã có các giáo sĩ truyền giáo Tây phương đến Hồ Nam để truyền Phúc Âm. Năm 1949, tại Hồ Nam có 827 giáo đường và giáo sở Tin Lành, thuộc 28 giáo phái, chủ yếu là Chân Giê-xu Giáo hội, Nội Địa hội, Trưởng Lão hội, Phong trào Giám Lý, Tín Nghĩa hội Na Uy. Các giáo phái Tin Lành đã thiết lập nên Tương Nhã Y học viện và thực hiện nhiều hoạt động phúc lợi khác. Hiện tại, Hồ Nam có 630 điểm sinh hoạt Tin Lành, có hơn 730.000 người theo. Những năm gần đây, Tin Lành phát triển nhanh chóng tại Hồ Nam.
  • Công giáo: Nhà thờ Lớn của Hồ Nam được đặt tại Hành Dương. Năm 1949, Công giáo có 60.000 tín đồ với 355 giáo đường, hình thành 9 giáo phận (Hành Dương, Trường Sa, Vĩnh Châu. Thiệu Dương, Tương Đàm, Thường Đức, Nguyên Lăng, Nhạc Dương, Lễ Huyện), thuộc các dòng Fran-xít của Ý, dòng Augustinô của Tây Ban Nha, giáo đoàn Thụ Nạn của Hoa Kỳ. Toàn bộ các hoạt động Công giáo tại Hồ Nam được tổ chức lại thành một giáo phận vào năm 1999. Năm 1999, Hồ Nam có 54 giáo đường Công giáo, số tín đồ khoảng 50.000 người, chủ yếu phân bố tại bắc bộ.
  • Hồi giáo: Năm 1998, toàn tỉnh Hồ Nam có 44 thánh đường Hồi giáo với 120.000 tín đồ. Những người Hồi giáo tại Hồ Nam chủ yếu là người Hồi và người Duy Ngô Nhĩ, họ bắt đầu định cư tại Thiệu Dương và Thường Đức từ thời Nhà Minh.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hồ_Nam http://rightsite.asia/en/industrial-zone/binzhou-e... http://rightsite.asia/en/industrial-zone/changsha-... http://rightsite.asia/en/industrial-zone/zhuzhou-h... http://www.people.com.cn/GB/shenghuo/1090/2435218.... http://www.hunan.gov.cn http://www.bmj.com/content/338/bmj.b1211 http://books.google.com/books?id=905wAAAAMAAJ&q=Ui... http://books.google.com/books?id=UlaBw3MUGBEC&pg=P... http://books.google.com/books?id=UuEyAAAAIAAJ&q=Ui... http://www.thechinaperspective.com/topics/province...